Bát thức tâm vương là gì? Tại sao cùng một sự vật nhưng mỗi người lại có cái nhìn và suy nghĩ khác nhau về nó? Quan niệm Duy thức học cho rằng tất cả nhân sinh đều do thân mệnh, tất có ý thức. Sự nhận thức được tạo nên từ hai phần “phần mình biết, phần bị biết”. Tuy nhiên, hai thành này xuất phát từ ý thức tâm não, nhưng tâm não chỉ là “phần mình biết”, nếu không có “phần bị biết” thì sự nhận thức không tồn tại.
Ở đây, khái niệm này được Duy thức học định nghĩa là “thức” gồm với 8 hình thái khác nhau và được gọi là Bát thức tâm vương. Vậy Bát thức tâm vương là gì? và nó ảnh hướng thế nào đến nhân sinh? Hãy cùng Phật Giáo 247 đi tìm lời giải đáp trong bài viết này.
Bát Thức Tâm Vương Là Gì?
Đức Phật đã có lời dạy trong kinh Pháp Cú rằng “Tâm là chỉ của tất cả các pháp”. Điều này có thể được lý giải rằng bát thức tâm vương mọi sự vật, sự việc trên đời đều xuất phát từ tâm và biểu hiện ra cũng từ tâm. Duy Thức học đưa ra quan niệm rằng trong mỗi người đều tồn tại bát thức tâm vương chính là 8 loại tâm thức hay còn được gọi là tám tâm vương.
Có thể hiểu rằng ở đây chữ “tâm” và chữ “thức” đều được dùng để thể hiện ý nghĩa là “biết, nhận thức”. Còn “tâm vương” có thể nhận định là “vua”.
“Bát thức tâm vương” chỉ 8 loại tâm thức tồn tại trong mỗi cá nhân và hoạt động như một khối, vừa độc lập (vua) nhưng cũng chứa đựng lẫn nhau, các thức trong phật giáo này tác động và bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức sự vật, sự việc.
8 Loại Tâm Thức Trong Bát Thức Tâm Vương
Bát thức tâm vương bao gồm 8 thức trong Phật giáo đó chính là: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt-na thức và A-lại-da thức.
Trong đó, Tiền ngũ thức là tên gọi chung của 5 thức đầu tiễn bắt nguồn từ chính 5 giác quan của cơ thể. Mội thức đều sở hữu khả năng nhận thức và phân biệt khác nhau. Theo tâm lý học hiện đại, có thể hiểu với 5 cảm giác là: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác.
Nhãn Thức
Chính là những cái ta nhìn thấy, những gì chúng ta biết nhờ vào mắt. Đối với một đối tượng, mắt chúng ta nhìn thấy, nhận biết hình tướng, phân biệt màu sắc (xanh, đỏ, tím, vàng…), hình dáng (cao, thấp, vuông, tròn…), trạng thái (đi, đứng, ngồi…).
Nhĩ thức
Chỉ những gì chúng ta nghe, những gì chúng ta biết nhờ việc lắng nghe “tai nghe”. Đối tượng nổi bật ở đây là âm thanh với các đặc điểm về âm lượng, cường độ, âm sắc…
Tỷ Thức (Tị Thức)
Có nghĩa là những gì chúng ta ngửi, những gì chúng ta biết khi mũi tiếp xúc với mùi hương có thể là: Hương thơm, mùi hôi hoặc mùi hương trung tính (không mùi – không hôi, không thơm).
Thiệt Thức
Là những gì chúng ta nếm được, được tạo ra khi lưỡi tiếp xúc với thức ăn hoặc nước uống (vị giác). Có 6 loại hương vị gồm: Chua, cay, mặn, ngọt, đắng, bùi.
Thân Thức
Đó là cảm xúc – cảm giác được tạo ra khi cơ thể tiếp xúc với đồ vật. Cảm giác ở đây có thể là: mềm mại, thô nhám, nóng, lạnh, nặng, nhẹ…
Năm ý thức kể trên chỉ thuần túy là “cảm giác”, do đó chúng không có khả năng phán đoán hay ước tính. Đức Phật nói rằng 5 thức này là 5 thức “vô niệm”. Nói một cách đơn giản, bản thân những ý thức này đã được đặt tên và đại diện cho chính chúng, chứ không có khả năng phân biệt hay đánh giá.
Ví dụ như khi mắt chúng ta nhìn thấy màu xanh lam thì chỉ thấy màu xanh lam thôi, nhưng để gọi tên được màu này thì chúng ta cần phải có kiến thức về màu này. Giống như khi một đứa trẻ nhìn một vật màu xanh, nó chỉ nhìn vào nó nhưng chưa nhận ra nó. Người lớn đưa đồ vật ra, nói và dạy trẻ “nó màu xanh”, chỉ khi đó trẻ mới nhận ra rằng nó có màu xanh. Màu xanh lá. Như vậy, chỉ khi có sự tác động có ý thức thì chúng ta mới có thể phân biệt và đánh giá chúng về bản chất và mức độ.
Ý Thức
Ý thức là thức thứ sáu tồn tại trong con người, được hình thành khi chúng ta tiếp xúc với một đối tượng nhận thức nhất định. “Ý thức” có gốc là “ý tưởng” và “đối tượng” là “các pháp” – tất cả những sự vật, sự kiện, hiện tượng mà chúng ta có thể cảm nhận được hoặc tồn tại chỉ trong tâm trí (tưởng tượng).
Hòa thượng Thích Thiện Hòa đưa ra một ví dụ về ý thức như sau: Trong khi chúng ta, mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi, miệng không nếm, thân thể không chạm xúc; nói cho gọn hơn, là trong lúc năm giác quan không tiếp xúc với trần cảnh, mà ý thức vẫn phân biệt tính toán: nhớ những cảnh đã qua, suy xét những điều chưa đến. Cái biết như thế, thuộc về “Ý thức”… chính vì thế cho nên “Cái Ý thức này, công dụng của nó lợi hại vô cùng. Nếu nó suy nghĩ tính toán những việc hay, tốt, thì thân chúng ta sẽ làm điều lành, miệng nói những lời phải, đều có lợi ích cho mình và người”.
Phạm vi nhận thức của ý thức được tóm tắt dưới hai hình thức:
Ý Thức Bổ Trợ
Là ý thức được dùng kết hợp với tiền ngũ thức. Những điều sinh ra từ năm thức này chỉ là “cảm giác”, khi bị ý thức tác động sẽ tạo nên nhận thức. Chúng ta gọi sự hợp nhất của sáu thức này là “ngũ câu ý thức” hay “tri thức thuần túy”. Trong cuộc sống, mọi “ sự biết” đều được hình thành từ các giác quan và được làm sáng tỏ bằng ý thức. Trong Duy thức tam thập tụng, 6 thức này được gọi là “liễu biệt cảnh thức” – tức là “trí” phân biệt rõ ràng về mọi mặt.
Ý Thức Đơn Độc
Trạng thái này biểu thị một ý thức tồn tại và hoạt động hoàn toàn độc lập và không có mối liên hệ nào với 5 ý thức trước đó. Theo cách nói thời nay, “ý thức” này được gọi là những hoạt động diễn ra trong trí tưởng tượng, hồi tưởng, suy tư, định kiến… gọi chung là “sự phân tán của ý thức”; Hoặc ý thức cũng có thể xuất hiện khi chúng ta mơ (mơ trong ý thức), ý thức của người điên (rối loạn ý thức), ý thức khi đang thiền định (tập trung trong ý thức).
Tóm lại, ý thức không chỉ giúp chúng ta phân biệt các hiện tượng, sự vật, sự kiện trong thế giới con người mà nó còn “phác họa” những điều khó có thể có thật (con số, khái niệm trừu tượng, khái niệm, quá khứ, tương lai…). Ý thức giúp con người phân biệt được sự vật (vật thể) bên ngoài và ý thức bên trong (suy nghĩ trong lòng).
Nhờ có ý thức mà con người khác biệt với các loài động vật khác. Thông qua ý thức, có người thông minh, có người ngu ngốc. Lương tâm là nền tảng để tạo ra những điều tốt lành, chân chính nhưng lương tâm cũng là nguồn gốc của phiền não, đau khổ.
Mạt-Na Thức
“Ma-na” có nghĩa là tư lương” hay “ý” – tư duy so lường. Trong cuốn “Chỉ Thức Luận” có giải thích như sau:“Tư” – tức là suy nghĩ; “lương” – tức là đo lường. Mạt-na thức thức có thể hiểu là luôn luôn (thường hằng) suy nghĩ, tính toán và cân nhắc.
So sánh với ý thức, mặc dù cũng có khả năng suy nghĩ và đo lường nhưng ý thức lại mang tính gián đoạn. Hoặc so với tiền ngũ thức thì 5 ý thức này hoàn toàn không thể phân biệt được (không có ý thức) và cũng bị gián đoạn (chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định).
Hòa thượng Thích Thiện Hoa giải thích về thức thứ 7 như sau: Thức Mạt-na là “gốc” của ý thức (thức thứ 6). Vì thức thứ 6 cũng có khi bị gián đoạn (ví dụ khi ta ngủ sâu, hôn mê không còn biết gì cả thì “ý thức” không còn tồn tại nữa). Lúc này, ý thức của chúng ta ở đâu? Khi ý thức mất đi không phải là mất hẳn mà nó chỉ tạm thời không có mặt ở đó. Trong trạng thái đó, ý thức trở về cái gốc của nó – đó chính là thức thứ 7 (Mạt-na thức).
Theo Phật giáo, Mạt-na thức là sự “khẳng định” bản thân (bản ngã). Chính ý thức đã phân biệt giữa chúng ta (cái tôi) và những người khác (kẻ khác). Mạt-na thức cũng được coi là “tâm gây đau khổ”. Nghĩa là khi chúng ta buồn hay vui thì cái “tôi” cũng có mặt và cái “tôi” gắn bó chặt chẽ với mọi vật xung quanh.
A-Lại-Da Thức
Được xem là nền tảng của 7 thức trên. The quan niệm Duy Thức Học gọi A-lại-da thức là “căn bản thức”; bảy thức còn lại: mạt-na, ý, nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt và thân, đều được chuyển hiện, sinh khởi từ căn bản thức, cho nên chúng được gọi là “chuyển thức”
Vai Trò của Bát Thức Tâm Vương
Vai Trò Của Tám Thức
Tuy có tám thức nhưng xét về vai trò thì chúng có ba nhiệm vụ chính:
- Nhiệm vụ 1: Chứa đựng và bảo vệ mọi những “hạt giống” mà chúng ta đã trải qua ám chỉ mọi hành động chúng ta đã làm, mọi nhận thức mà chúng ta đã có, mọi kinh nghiệm chúng ta đã tích lũy.
- Nhiệm vụ 2: Bản thân thức Alaya (tàng thức) cũng là hạt giống. Bản thân tàng thức không chỉ là “kho chứa hạt giống” mà còn có thể là những hạt giống đang ở đó. Ví dụ: Bát đựng cơm – chúng ta gọi là bát cơm. Nhưng khi trong bát không còn cơm nữa thì không thể gọi là bát cơm được nữa. Như vậy, thức thứ 8 có thể vừa là chủ thể vừa là khách thể.
- Nhiệm vụ 3: Chứa đựng những cảm xúc, luyến ái (tình cảm, nhận thức) về cái tôi. bản thân. Nhiệm vụ này phát sinh từ mối quan hệ giữa A-lại-da thức và Mạt-na thức. Thức Mạt-na được sinh ra từ Tàng Thức, nhưng Thức Mạt-na cũng bao trùm Tàng Thức và xem nó như một “cái tôi” riêng biệt của riêng mình. Theo Phật giáo, hầu hết đau khổ của con người là kết quả của việc ý thức Mạt-na ôm lấy tàng thức để tạo ra “cái tôi” riêng biệt của riêng mình.
Ví Dụ Về Hoạt Động Của Tám Thức
Có một ví dụ về cách thức hoạt động của 8 thức như sau: Khi chúng ta ngủ, 5 giác quan không tiếp nhận thông tin nhưng vẫn nhận được những “tín hiệu tiềm ẩn” từ ý thức thứ 8. Từ đó, trong giấc mơ, chúng ta nhìn thấy chính mình, nghe thấy âm thanh, tiếp xúc với khung cảnh trong mơ. giống như chúng ta khi chúng ta thức. Từ những nhận thức tạo nên trong tâm trí chúng ta từ giấc mơ này, sinh ra những cảm giác vui, hạnh phúc, yêu, ghét, đau khổ, sợ hãi… Tất cả những điều trên chỉ là sự “tưởng tượng” do tâm trí chúng ta tạo ra.
Ý Nghĩa Của Bát Thức Tam Vương
Việc chia thành tám thức trên chỉ là một cách để dễ dàng hiểu được các khía cạnh khác nhau của thức; Mọi chuyện không được giải quyết như thế. Thực ra, tám thức này chỉ là tám quả, tám hành vi hay tám biểu hiện của ý thức chứ không phải là “tám tâm riêng biệt, biệt lập”. Mặc dù có tám thức, nhưng mỗi thức đều liên kết chặt chẽ với các thức khác; Tuy một là tám, tuy tám là một, nên chúng cũng có thể được gộp lại thành một mối liên hệ, đó là Thức tức là Căn Bản thức, là thức thứ 8.
Tóm lại, chúng ta có thể nói: Ý thức có ba tác dụng: tàng (hay dị thục), tư lương và liễu biệt cảnh. Những kinh không chuyên về “duy thức” thường dùng những tên gọi như Tâm, Ý, Thức hay Nghiệp Thức để chỉ cho phần “tinh thần” phân biệt với ” thân thể”.
Lời Kết
Những trạng thái, tư tưởng, tình cảm, hành động của con người, mối quan hệ giữa con người và các sự kiện xung quanh cũng như muôn vật trong vũ trụ, xuất phát từ tâm thức mà đều có ra. Do đó, hiểu rõ được Bát thức tâm vương là điểm khởi nguồn để nắm bắt được Duy thức – được xem là khoa học nêu rõ tính tướng nhân sinh vũ trụ trong Phật Giáo. Từ đây, bản thân có thể hiểu rõ về sự khởi tạo của nhân sinh, những chuyển biến, bí ẩn của nhân sinh từ đó thấu hiểu được chính sở tại và khởi phát thiện lành, giúp ích trong quá trình thiền hành Phật Pháp.