Thượng Tọa Thích Viên Thành, một trong những vị Hòa Thượng vĩ đại của Phật giáo Việt Nam, người đã góp phần quan trọng vào việc lan tỏa tinh thần Phật pháp và làm sống dậy những giá trị tôn giáo đã bị thất truyền tạo nên tiền đề tu tập cho cộng đồng Phật tử.
Với đạo hạnh dày dăn, kinh nghiệm và sự hiểu biết sâu sắc về triết lý Phật giáo, thầy Thích Viên Thành đã trở thành biểu tượng vĩ đại về lòng nhân ái, tình yêu thương và trí tuệ nhà Phật.
Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Viên Thành – Kim Cương Thượng Sư Mật Tông Việt Nam
Hòa Thượng -Thượng tọa Thích Viên Thành, thế danh Phùng Xuân Đào, sinh ngày 15/07/1950 tại làng Thượng Cát, xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Thầy sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống thâm tín ngôi Tam Bảo có hai người cô ruột là sư cụ Thích Đàm Mậu và sư cụ Thích Đàm Ngọ, trụ trì chùa Bi, tỉnh Vĩnh Phúc. Thầy sớm xuất gia khi chỉ mới 12 tuổi.
Sinh thời sư thầy đảm nhiệm những chức vụ như sau:
- Ủy viên thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Phó ban Giáo dục Tăng ni, Phó ban Văn hóa, Phó ban Từ thiện xã hội, Ủy viên ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Phó trưởng ban thường trực kiêm chánh thư ký tỉnh hội Phật giáo tỉnh Hà Tây
- Phó hiệu trưởng trường cơ bản Phật học tỉnh Hà Tây
- Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây
- Ủy viên Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh Hà Tây
- Trưởng Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ
- Trụ trì chùa Hương và chùa Thầy tỉnh Hà Tây (Hà Nội)
- Hòa Thượng Thích Viên Thành viên tịch vào ngày 31/05/2002 (tức ngày 20/04/Nhâm Ngọ) trụ thế 53 năm, hạ lạp 32 năm
Hành Trình Tu Tập Và Đạo Hạnh Của Thầy Thích Viên Thành
Xuất Gia
Khi Hòa Thượng ra đời thì cha của Thầy đã sớm từ giã trần thế. Thầy trưởng thành trong tình yêu thương của bà và mẹ. Trước cảnh chia ly và sinh tử, thầy sớm nhận ra sự vô thường của đời người nên Hòa Thượng đã quyết định xuất gia vào năm 12 tuổi và để lại bài thơ:
“Chú ơi ! Xin chú hiểu lòng tôi
Giờ phút chia tay đã đến rồi
Vẫn biết gia phong cần giữ đấy
Nhưng vì chân lý phải đành thôi
Chú ơi ! Ân nghĩa cháu không quên
Nguyện chứng Chân như sẽ báo đền
Chú ở lại nhà xây tổ nghiệp
Cháu đi cầu Pháp cứu oan khiên
Kẻ vun cội phúc cho tươi tốt
Người đắp nền nhân thật vững bền
Chú cứ yên tâm đừng có ngại
Cháu thề cố gắng quyết tu lên.”
Hòa Thượng đã được Cao tăng Thích Đàm Viễn, trụ trì chùa Khánh Sơn (chùa Cao Lá), xã Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Sơn Bình (Hà Nội) tiếp đón.
Năm 15 tuổi, thầy được Tổ sư đời thứ 10 Thích Thanh Trân – Hương Tích, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Sơn Bình, chính thức nhận làm đệ tử.
Năm 19 tuổi, thầy được Hòa Thượng Nhân Quả thọ giới làm sa di. Sau khi đắc giới, Hòa Thượng luôn tinh tấn thực hành Pháp. Năm 1972, Hòa Thượng chính thức thọ giới thọ giới và hoàn thành đúng giới luật trí tuệ của Giáo hội Phật giáo tỉnh Hà Sơn Bình.
Quá Trình Tu Tập
Khi còn tháp tùng Hòa Thượng Tôn sư đến với Tổ Hương Tích, Thầy đã được tiếp thu những căn bản về Mật Thừa, chính vì thế mà thầy luôn đau khổ với ước muốn làm sống lại bản Pháp của tông phái mà chư Tăng đã dạy.
Năm 1973 – 1976, Hòa Thượng xuống núi, theo học lớp Trung cấp Phật học tại chùa Quảng Bá và chùa Quán Sứ Hà Nội. Trong thời gian tu học tại chùa Quán Sứ, Hòa Thượng không những là người tinh thông về học thuật, mà còn Giới luật nghiêm trì.
Năm 1978, Thầy được cư sĩ Nguyễn Duy Phương dâng tặng bộ Đại Nhật Kinh sớ bản Hán văn do cố Đại lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam trao lại.
Thầy liền thành lập nhóm để phiên dịch và căn cứ vào đó để tu tập, soạn ra các nghi quỹ hành trì Mật giáo, rộng truyền Mật pháp, thành lập đạo tràng Chân – Tịnh tại Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác như Việt Trì, Thái Nguyên, TP.HCM…
Đồng thời truyền bá sang các nước phương Tây (Nga, Ba Lan, Pháp, Đức….) cho các đệ tử của Thầy đang sinh sống và làm việc.
Với tài năng và trí tuệ vượt bậc, Thầy được Giáo hội tuyển thẳng vào Trường Cao cấp Phật học Việt nam (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội) khóa I, niên khóa 1981 – 1985.
Năm 1985 sau khi tốt nghiệp trường Cao cấp Phật học Việt Nam, thầy quay trở về chốn Tổ Hương Tích phụng sự Tam Bảo và bắt đầu sự nghiệp Hoằng truyền Phật pháp.
Hoằng Dương Phật Pháp
Năm 1984, hòa thượng được mời về trụ trì chùa Thầy ở Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội.
Năm 1985, giữ chức vụ trụ trì Tùng lâm Hương Tích. Với đạo hạnh và uy đức của mình, sư thầy đã khơi nguồn, làm sống lại Mật giáo Chùa Hương, chùa Thầy, thiền dương giáo nghĩa Mật Tông Việt Nam.
Năm 1987, thầy làm Phó ban Trị Sự kiêm Chánh thư kí Tỉnh hội tại Đại hội PGVN, nhiệm kì III và được tấn phong vào hàng giáo phẩm Thượng Tọa chính thức được cử vào Hội đồng trị sự Trung ương GHPGVN.
Năm 1991, tiến cử làm Phó hiệu trưởng thường trực của Trường Trung cấp Phật học Hà Nội.
Năm 1993, được bầu làm Ủy viên thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN, Phó ban từ thiện Trung ương và Ủy viên ban Hoằng pháp Trung ương.
Ngày 11/04/1993, gặp gỡ Đại lão Hòa Thượng Je Khenpo – bậc Kim Cương Thượng Sư Giáo chủ dòng truyền thừa Drukpa Bhutan để sam cứu giao lưu với Mật Tông nước bạn, Hòa Thượng được đức Giáo chủ quán đỉnh điểm đạo, ấn chứng Hòa Thượng là bậc Kim Cương Thượng Sư đắc Pháp Tổng Trì của Mật Tông Việt Nam thời bấy giờ.
Năm 1998, được suy tôn lên ngôi Đường chủ của trường hạ cho đến khi viên tịch và giữ chức vụ Phó ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Trưởng ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ.
Tháng 3/1989, đảm nhận chức vụ Trưởng ban kiến thiết xây dựng và Tôn tạo chùa Hương.
Năm 1994, thầy là đại biểu HĐND xã Hương Sơn, HĐND huyện Mỹ Đức, là Đại biểu HĐND tỉnh Hà Tây khoá V, VI và VII.
Viên Tịch
Với lòng từ bi vô lượng, công đức sáng ngời, những mong Hòa Thượng sẽ trụ thế lâu hơn nữa để hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử trên con đường thực hành chân lý giải thoát giác ngộ.
Nhưng mọi việc đã hoàn thành và thành tựu viên mãn, thuận lẽ vô thường, thâu thần thị tịch, trả lại tấm thân tứ đại cho trần gian mộng huyễn, lên thuyền Bát Nhã vân du miền Cực lạc diện kiến đức Như Lai vào hồi 18 giờ 40 phút ngày 31/05/2002 (tức ngày 20/04/Nhâm Ngọ) trụ thế 53 năm, hạ lạp 32 năm.
Thầy đã cống hiến cả cuộc đời mình cho Đạo pháp và cộng đồng dân tộc. Thầy luôn coi trọng tinh thần hành Bồ Tát đạo trong việc giáo dục Tăng Ni, Phật tử với phương châm lấy trí tuệ làm sự nghiệp, lấy lợi tha làm phương tiện, lấy bố thí làm căn bản, lấy giáo dục để phát triển
Những đóng góp của Hòa Thượng cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam vô cùng to lớn và quý giá cho nền Phật giáo nước nhà. Công hạnh của Hòa Thượng mãi mãi được khắc sâu trong tâm khảm của Tăng, Ni, Phật tử cũng như môn đồ Pháp quyến.
Đặc biệt, thầy Thích Viên Thành đã tái sinh và xiển dương dòng truyền thừa Mật Tông Việt Nam, duy trì mạng mạch, phát triển dòng phái Hương Tích mà chư Tổ đã để lại ngày càng rực rỡ. Hòa Thượng là bậc Kim Cương tổng trì của Mật Tông Việt Nam sánh cùng với Mật Tông các nước trên toàn thế giới.
Những Tác Phẩm Tiêu Biểu Của Thượng Tọa Thích Viên Thành
Thượng tọa luôn lấy Trí Tuệ làm sự nghiệp chân chính của người xuất gia, nên mỗi khi xong công việc của Giáo hội trở về Phương Trượng, sư thầy đã không quản ngày đêm, quên đi mệt mỏi bắt tay vào công việc nghiên cứu, dịch thuật, trước tác, xuất bản các ấn phẩm Phật giáo.
Thầy đã để lại nhiều tác phẩm, dịch phẩm thông qua báo chí, tạp chí, xuất bản, như một số tác phẩm, dịch thuật tiêu biểu dưới đây:
- Đại bi nghi quỹ
- Chuẩn đề nghi quỹ
- Lục độ Tara
- Du già nghi quỹ
- Lục đạo tập
- Truy môn cảnh huấn
- Bút ký bên cửa trúc
- Khóa lễ phổ môn
- Lược sử các tông phái Phật giáo
- Xuân thu lễ tụng
- Giới Phạm Võng
- Chùa Hương ngày nay
- Danh thắng chùa Thầy
- Truyện Phật bà chùa Hương
- Quan Âm Thị Kính
- Kỷ niệm chùa Hương
- Văn khấn Nôm truyền thống
- Phim tài liệu Bầu trời cảnh Bụt
- Phim tài liệu Bức tranh quê hương
- Thuyền môn thi ký
- Công tác xã hội
- Nhân minh học
- Đại Tỳ Lư Giá Na thành Phật kinh sớ (chưa xuất bản)
Kết Luận
Với trí tuệ sáng ngời và tấm lòng nguyện hiến dân cho Phật pháp và dân tộc, Thượng Tọa Thích Viên Thành đã trở thành biểu tượng tinh thần và lý tưởng cho hàng triệu Phật tử trên khắp Việt Nam và trên thế giới.
Là một trong những vị Hòa Thượng có đạo hạnh lớn lao của Phật giáo Việt Nam, Thượng Tọa Thích Viên Thành không chỉ là một vị nhà sư lỗi lạc mà còn là người đã làm sống dậy cả một xiển dương dòng truyền thừa Mật Tông Việt Nam làm tiền đề tu tập cho thế hệ sau này.